Tần suất quan hệ tình dục giảm hoặc thậm chí là không có quan hệ tình dục, kèm với hiện tượng trứng rụng thất thường sẽ tăng nguy cơ vô sinh, hiếm muộn.
Suy buồng trứng sớm – Nguyên nhân hàng đầu gây hiếm muộn
Suy buồng trứng sớm là tình trạng hai buồng trứng ngừng hoạt động bình thường khi người phụ nữ chưa đến 40 tuổi. Tình trạng này gây mất kinh, rụng trứng bất thường dẫn đến rối loạn trong thời kỳ kinh nguyệt… kéo theo giảm khả năng sinh sản. Nó cũng khiến cơ thể mệt mỏi, vã mồ hôi đêm, mất ngủ, âm đạo khô rát khiến đau khi quan hệ tình dục… sẽ ảnh hưởng tới tần suất quan hệ tình dục.
Đến nay, chưa có phương pháp điều trị nào để cải thiện khả năng sinh sản của phụ nữ bị suy buồng trứng. Chỉ có khoảng 5 – 10% số bệnh nhân mang thai mà không cần điều trị. Ngoài ra, cần phải áp dụng các phương pháp hỗ trợ sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Và khi họ muốn lấy trứng của chính mình để làm IVF thì cần sử dụng biện pháp kích thích buồng trứng.
Các biện pháp kích thích buồng trứng
Kích thích buồng trứng là phương pháp sử dụng các loại thuốc nội tiết uống hoặc tiêm nhằm giúp trứng phát triển đến trưởng thành và chín, rụng. Sau khi nang trứng trưởng thành, đủ kích thước, bệnh nhân sẽ được tiêm hCG để giúp trứng rụng.
Phương pháp này được sử dụng trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cho các trường hợp vô sinh do rối loạn phóng noãn, không phóng noãn hoặc ở bệnh nhân đa nang buồng trứng, được áp dụng cho những cặp vợ chồng lấy nhau 1- 2 năm chưa có thai.
Kích trứng trong IUI (bơm tinh trùng vào qua cổ tử cung)
Kích thích buồng trứng để bơm tinh trùng vào buồng tử cung thường được áp dụng cho các bệnh nhân bị rối loạn phóng noãn. Ở các bệnh nhân này, cần ít nhất một nang trưởng thành có phóng noãn để đạt được hiệu quả điều trị. Do đó, chọn lựa phác đồ kích thích buồng trứng trong IUI cần phù hợp sao cho số nang có thể giải phóng noãn không quá nhiều nhằm hạn chế các biến chứng.
Phác đồ ngắn: Đối với bệnh nhân lớn tuổi, đáp ứng kém với kích thích buồng trứng thường được sử dụng biện pháp phác đồ ngắn (hay cực ngắn). Trong biện pháp này, bệnh nhân được sử dụng các thuốc uống bắt đầu từ ngày thứ 2 của chu kỳ kinh. Có thể sử dụng thuốc tiêm song song hoặc chậm hơn 1- 2 ngày. Sau đó được siêu âm theo dõi nang noãn bắt đầu từ ngày thứ 6 (tính từ ngày bắt đầu ra kinh) của chu kỳ kinh. Các lần siêu âm sau và liều thuốc tiếp tục được điều chỉnh tùy theo kích thước và số lượng nang noãn phát triển. Tiêm hCG để kích thích phóng noãn khi có ít nhất 1 nang đạt kích thước 18mm trên siêu âm. Bơm tinh trùng 36 giờ sau khi tiêm hCG hay 24 và 48 giờ nếu bơm tinh trùng 2 lần trong một chu kỳ.
Phác đồ tăng liều dần: Sử dụng thuốc kích thích buồng trứng liên tục trong 14 ngày theo chỉ định của bác sĩ. Sau đó bệnh nhân sẽ được siêu âm và xét nghiệm nội tiết theo dõi nang noãn được lần đầu sau 14 ngày. Nếu chưa có đáp ứng thuốc, nang nhỏ dưới 10mm trên siêu âm, thì bệnh nhân sẽ tăng liều thuốc. Đối với bệnh nhân có đáp ứng, nang lớn hơn 10mm, thì sẽ duy trì liều cũ cho đến khi nang noãn đạt đến tiêu chuẩn tiêm hCG và tiếp tục tiến hành bơm tinh trùng như đã nêu trên.
Chu kỳ này sẽ bị ngưng điều trị khi bệnh nhân không có đáp ứng buồng trứng sau 35 ngày kích thích hoặc không có nang vượt trội khi đã dùng đến liều tối đa trong một tuần.Phác đồ này sẽ bị ảnh hưởng bởi tuổi tác và tình trạng béo phì của người phụ nữ.
Phác đồ giảm liều dần: Sử dụng thuốc kích trứng ngay sau khi người bệnh có kinh tự nhiên hoặc sau khi được sử dụng progesteron. Duy trì liều thuốc đó cho đến khi có một nang vượt trội trên 10mm trên siêu âm. Sau đó, giảm dần liều thuốc và nang noãn đạt đến tiêu chuẩn thì tiêm hCG.
Lưu ý: Phác đồ tăng liều dần an toàn và hiệu quả hơn phác đồ giảm liều dần nhưng chi phí cao hơn do thời gian điều trị kéo dài.
Kích trứng trong IVF (thụ tinh trong ống nghiệm)
Để một chu kỳ IVF có hiệu quả, số lượng nang noãn trung bình cần đạt được sau kích thích buồng trứng là 8 – 10 nang noãn trưởng thành. Có 2 phác đồ kích thích buồng trứng được sử dụng trong IVF, đó là:
Phác đồ dài: Sử dụng các thuốc tiêm kích thích buồng trứng từ ngày 14 – 21 của chu kỳ kinh nguyệt, có thể sử dụng từ ngày thứ 21 của chu kỳ kinh trước hoặc áp dụng từ ngày thứ nhất của chu kỳ kinh. Sử dụng thuốc và liều lượng tùy theo độ tuổi bệnh nhân và sự đáp ứng của buồng trứng với thuốc. Theo dõi siêu âm nang noãn được bắt đầu vào ngày thứ 6 sau khi sử dụng kết hợp các thuốc kích thích buồng trứng. Sau đó, siêu âm được tiến hành mỗi ngày hay mỗi 2 – 3 ngày tùy theo kích thước của nang noãn.